inh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện tấm lòng trân trọng, mối quan tâm sâu sắc giàu tình nhân ái và những mong muốn thiết tha về Hà Nội, với Hà Nội. Người xác định vị trí “đầu tàu”, “gương mẫu” của Hà Nội mà “cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta” nên Người mong muốn làm sao để cho Hà Nội “thành một Thủ đô bình yên tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”.
Hà Nội cũng là nơi ghi dấu những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Ngày 26-8-1945, Người từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam đọc Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào. Hay “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước của Hồ Chủ tịch” ngày 17-7-1966, trong đó có câu nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành chân lý của thời đại. Rồi cũng ở Hà Nội, Bác Hồ đã viết những dòng Di chúc trước lúc đi xa, để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, cho dân tộc Việt Nam.
Với vị trí địa lý và vai trò đặc biệt của mình, Thủ đô Hà Nội có vinh dự, tự hào vì là một trong những nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất, cũng là nơi có nhiều địa danh in dấu chân Bác và đã từng được Người dành sự quan tâm, đến thăm và căn dặn. Hầu hết các tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân, trí thức đến các chiến sĩ bộ đội, anh chị em dân quân, tự vệ, các nhân sĩ, trí thức, đồng bào tôn giáo, dân tộc, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên, nhi đồng, các chị lao công... đều được Bác gặp gỡ, thăm hỏi, động viên, khuyên nhủ ân cần. Qua các bài nói, bài viết, bức điện của Người hay những chuyến thăm của Người đều để lại những dấu ấn không thể nào quên.
Sau đây, Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng xin tổng hợp, trích đăng một số câu chuyện về tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Hà Nội và nhân dân Hà Nội trong thời kỳ Người sống và làm việc tại Thủ đô.
Phần 1
1. Trong đời tôi một bình minh đã đến
Cụ Võ An Ninh dẫn tôi về nhà riêng của cụ ở phố Ngô Gia Tự - Thành phố Hồ Chí Minh vào một ngày Xuân rất đẹp trời. Lão nghệ sĩ nhiếp ảnh tiếp tôi trong bốn giờ đồng hồ liền, thông cả buổi trưa, trong một không khí thân tình, cởi mở. Ông già ngoài 90 tuổi không hề tỏ ra mệt mỏi, mà trái lại, càng trò chuyện cụ càng sôi nổi. Bao kỷ niệm trong đời, trong nghề cứ cuồn cuộn… Tôi lắng nghe, ghi chép không ngừng tay, chỉ thỉnh thoảng dừng lại một chút, hỏi cụ vài ba chi tiết nào đó. Tôi cảm thấy đang đắm mình trong dòng ký ức vô tận của một nhân chứng lịch sử. Cuộc đời cụ Võ An Ninh trải dài gần hết cả thế kỷ XX đầy biến động. Cụ nói: “Tôi sinh năm 1907, cầm máy từ năm 25 tuổi. Tôi ra đời vào buổi bình minh của thế kỷ này, hăm hở bước vào với một sức sống và ước mơ mãnh liệt. Từ ước mơ, tôi hành động không ngừng, không nghỉ. Cả một đời chụp ảnh liên tục! Nằm mê cũng thấy mình chụp ảnh. 50 lần đến chùa Hương. 20 lần lên Sa Pa. Và biết bao lần tới Hạ Long, Đà Lạt. Cả đời tôi yêu thương và gắn bó với quê hương, với con trâu, đồng ruộng, ao bèo, với chiếc xe đạp, với chiếc áo dài của cô gái Việt Nam!”.
Càng nói, cụ càng say sưa. Nhất là khi cụ lật từng trang cuốn ảnh của cụ, giới thiệu cho tôi nghe ý tưởng và nội dung, kỷ niệm và vẻ đẹp của từng tác phẩm. Gương mặt cụ hồng hào và sinh động, tràn đầy vẻ phúc hậu, nhân ái. Thoáng trên nụ cười là một nét dí dỏm, hài hước.
Cụ bỗng dừng lại, nói một câu làm tôi thực sự xúc động:
“Tôi cất tiếng khóc chào đời trong buổi đầu thế kỷ. Nhưng, bình minh của đời tôi thực sự bắt đầu khi được gặp Bác Hồ và được chụp ảnh Người!”.
Cụ tỏ ra thật tự hào được là một trong những người đầu tiên chụp ảnh Bác Hồ trên đất nước Việt Nam. Hơi nheo mắt một chút, tay vuốt mái tóc bạc phơ, cụ kể:
“Ngày 02-9-1945, cả Hà Nội náo nức đón Lễ Độc lập. Ai cũng đứng vào hàng ngũ để được cuồn cuộn chảy về hướng Ba Đình, với cờ và khẩu hiệu trong tay. Tôi sẽ làm gì đây trong ngày hội lớn của dân tộc? Chụp, chụp và sẽ phải chụp thật nhiều ảnh. Cái đích của tôi là phải chụp được ảnh Cụ Hồ khi đang đọc Tuyên ngôn Độc lập, nếu không thì hỏng hết.
Đúng 2 giờ chiều, từ chân lễ đài, tôi nhìn các vị đại biểu dự lễ xuống xe và bước lên kỳ đài. Tôi thấy rất đông người và có nhiều người tôi không được biết tên… Tôi luýnh quýnh theo chân liền và hoàn toàn không bị ai ngăn cản. Trên kỳ đài, diện tích có vài mét vuông thôi mà hàng chục người đứng. Mọi người hình như chen vai thích cánh, hỏi như vậy làm sao tôi chụp được ảnh Cụ Hồ lúc đang đọc Tuyên ngôn Độc lập? Các vị dự lễ cũng rất tế nhị, khi tôi đang giơ máy lên, người đứng trước cũng khẽ nghiêng mình cho tôi chụp nhưng cái lưng khác lại che lấp ngay lập tức. Biết là không được, tôi vội tụt xuống cầu thang, đứng ôm máy dưới chân kỳ đài, nghĩ kế khác. Buổi lễ diễn ra trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ. Khi bài Tiến quân ca kết thúc, buổi lễ vừa dứt, tôi đã thấy một chiếc ôtô tiến sát vào chân kỳ đài. Xe đến đón Cụ Hồ, đi bên có ông Võ Nguyên Giáp. Đúng lúc Cụ Hồ và ông Giáp đã ngồi vào xe và xe chưa lăn bánh, tôi nhào tới đưa máy vào khoang cửa và nói: “Thưa Cụ, vừa rồi trên kỳ đài đông quá, con không chụp được ảnh Cụ. Xin Cụ cho phép con được lấy một hình của Cụ”. Cụ Hồ khẽ gật đầu. Nhưng lúc ấy Cụ Hồ đang đội mũ. Trời đã về chiều. Cái mũ cát vành rộng lại che đi mất nhiều ánh sáng. Tôi đánh liều:
“Thưa Cụ, con muốn Cụ hạ cái mũ xuống ạ!”.
Ông Giáp ngồi bên tủm tỉm cười như hiểu ý nguyện của tôi. Ông đưa tay lên hạ cái mũ của Cụ Hồ đang đội và nhìn tôi, nói: “Này, thì bỏ mũ xuống!”.
Thế là tôi có được bức ảnh “độc nhất vô song” trong cả cuộc đời gắn bó với nghệ thuật nhiếp ảnh: Cụ Hồ ngồi bên có ông Giáp, cả hai gương mặt đều cương nghị, nhưng hiền hòa, có chút khắc khổ vì những lo toan cho vận nước ở giờ phút ngàn cân treo sợi tóc. Hơn nữa, đây là tấm ảnh chụp vào ngày lịch sử muôn đời ghi nhớ của dân tộc ta, ngay sau khi Cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập với quốc dân đồng bào cả nước và thế giới.
Cụ Võ đập khẽ vào tay tôi, chỉ lên tường: “Bức ảnh ấy đấy!”.
Tôi nhìn lên tấm ảnh to, đặt cạnh những khung to treo bằng Huân chương Độc lập và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trên ảnh, Bác Hồ có cặp mắt sáng như sao và thật quắc thước, kiên nghị. Bộ râu Bác còn đen. Ông Võ Nguyên Giáp ngồi bên, đội mũ phớt, thắt cavát. Tôi thật sung sướng được cụ Võ An Ninh tặng cho tấm ảnh này. Cụ nói tiếp: “Tôi đã chụp nhiều người, kể cả vua chúa. Tôi là người có may mắn chụp ba vua cuối cùng của Việt Nam là Vua Khải Định, Vua Thành Thái và Vua Bảo Đại. Tôi chụp Vua Thành Thái, một ông vua yêu nước chống Pháp vào năm 1951, khi Pháp đưa ông Vua ấy từ nơi đảo xa trở về. Khi ấy Vua Thành Thái đã khoảng 80 tuổi, một mắt đã bị kéo màng. Cả những người khác nữa, tôi chụp nhiều, nhiều lắm, nhưng không một ai có cặp mắt tinh anh và đặc biệt như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một phòng triển lãm ảnh về ngày Lễ Độc lập đã được tổ chức tại phố Tràng Tiền - Hà Nội ngay sau ngày 02-9-1945. Một cán bộ Việt Minh đồng thời cũng là bạn tôi thấy tôi có bức ảnh quý đó nên vồ vập liền. Ông ta treo bức ảnh Cụ Hồ và ông Võ Nguyên Giáp ở chỗ trang trọng nhất của phòng triển lãm.
Thời đó, mỗi khi có triển lãm, nhất là những triển lãm về đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chúng thường đi xem rất đông, cho nên bức ảnh nói trên được nhiều người biết đến. Riêng tôi, do thời cuộc, đã để thất lạc cả phim tấm ảnh gốc đó. Nhưng may mắn sao, tôi đã gặp lại tấm ảnh đáng quý nhất của đời mình được in trong một cuốn hồi ký viết gần đây của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và tôi đã “sao” lại tấm ảnh, tác phẩm của chính mình. Cũng như “bạn” (cụ Võ gọi tôi như vậy - T.Đ), khách đến thăm nhà không ai không ngước mắt nhìn lên tấm ảnh này mà gia đình tôi đã trân trọng treo ở giữa phòng khách. Những đốm nắng chiều rơi trên khuôn mặt hai nhà cách mạng trở thành những yếu tố thật kỳ diệu như khắc họa một thời gian khó và quyết liệt của cả một dân tộc mà Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều vị khác là những nhân vật đại diện”.
Sau sự kiện cụ Võ An Ninh kể trên đây chừng 14 tháng, cụ còn là nhà báo ghi lại được những giây phút đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp trở về ngày 21-10-1946 trên chiếc tuần dương hạm Dumont d’Uwille của thực dân Pháp, sau khi Người ký Hiệp ước ngày 6-3 với thực dân Pháp tại Phôngtenơbnô và trở về Việt Nam. Tờ nhật báo buổi chiều Vì nước mà Chủ nhiệm lúc đó là ông Nguyễn Đức Thuyết đóng ở số nhà 84 phố Hàng Bột (Hà Nội) đã mời cụ thực hiện một thiên phóng sự ảnh. Số báo ra ngày 25-10-1945, dành hai trang đăng trọn vẹn phóng sự 21 ảnh về sự kiện lịch sử này. Qua lời cụ Võ kể, nhân dân Hải Phòng có vinh dự được đón Bác Hồ ngay từ những ngày đầu của chính quyền nhân dân còn non trẻ. Mọi người nhiệt liệt chào mừng vị lãnh tụ kính yêu trở về sau hơn bốn tháng hoạt động trên đất Pháp. Giờ đây, Người lưu lại thăm đồng bào, cán bộ và chiến sĩ Hải Phòng hai ngày. Cụ Võ An Ninh đã được đi theo cụ Nguyễn Văn Tố về thành phố cảng, đêm ngủ trên cái sập một nhà dân, sau mới biết đó chính là nhà của nhà thơ Lê Đại Thanh. Cụ Tố là Bộ trưởng của Chính phủ Hồ Chí Minh, vốn là thầy dạy tiếng Pháp của cụ Võ An Ninh. Học Tây học, nhưng cụ Tố không mặc đồ Pháp mà mặc áo dài trắng, chít khăn và đặc biệt không biết đi xe đạp. Cụ Võ An Ninh kể:
“Tôi còn nhớ rõ như mới ngày gần đây thôi, những giờ phút thiêng liêng ấy… vừa cập Bến Ngự, chiếc tuần dương hạm cùng lúc với Hải Phòng rung lên một hồi còi làm trong lòng mọi người bừng dậy một niềm ấm áp, tự hào, và cũng nghẹn ngào vì sung sướng, nhất là lúc vị Chủ tịch đặt chân đầu tiên trên đất quê nhà. Nhân dân Hải Phòng đã được sống những ngày đẹp nhất bên vị lãnh tụ kính yêu.
Dọc đường từ Hải Phòng về Hà Nội, chao ôi, đâu đâu cũng thấy người, cờ và biểu ngữ. Lúc này, tôi sung sướng lắm, được đi lại thoải mái trên tàu hỏa và chụp ảnh thì… nhiều khỏi phải nói. Trong toa tàu, không một phút nào Người ngưng tay vẫy, không một phút nào ngớt trả lời cho dân chúng, từ các cụ phụ lão, binh sĩ, viên chức, phụ nữ, thanh niên cho đến các cháu nhi đồng, và đặc biệt là cho giới báo chí. Đến Hải Dương, tàu dừng lại nửa giờ. Đúng 3 giờ 5 phút, đoàn tàu chuyển bánh tới Thủ đô Hà Nội. Lúc bước ra, Bác không giấu nổi cảm động trước một biển người và rừng cờ, xen lẫn trong những tiếng reo vui sung sướng: “Bác đã về”…”.
Cụ Võ An Ninh cho phép tôi xem kỹ từng tấm ảnh trong bộ phóng sự đó. Đây là hình ảnh các vị ra đón Bác ở Hải Phòng: Cụ Nguyễn Văn Tố, ông Võ Nguyên Giáp, ông Trần Huy Liệu, ông Vũ Đình Hòe, ông Nghiêm Kế Tổ, ông Phạm Văn Bạch và Đại tá Lami, đại diện cho các nhà đương cục Pháp; hình ảnh Bác Hồ bước xuống, giữa tiếng hô vang chào mừng của dân chúng; và đây là hình ảnh Người hút thuốc trong phòng riêng trên tuần dương hạm, bên trái Người là ông Hoàng Hữu Nam, Trưởng ty Liên kiểm Trung ương cùng ông Chủ tịch Ủy ban hành chính Hải Phòng lên tiếp rước Người… Những tấm ảnh, những tư liệu vô cùng quý giá. Những tác phẩm này cũng như toàn bộ cống hiến bằng hoạt động nhiếp ảnh của cụ Võ thật xứng đáng được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Tôi xin phép hỏi cụ Võ:
- Sau sự kiện này, cụ có còn dịp nào được chụp ảnh Bác Hồ không?
- Có chứ! Chủ yếu là ở Hà Nội. Tôi đã được hướng dẫn Bác và phái đoàn Đồng minh đi xem triển lãm 40 bức ảnh tôi chụp về nạn đói năm 1945, phóng cỡ 18x24cm để trong tủ kính. Bác đọc kỹ từng chú thích ảnh. Đến bức ảnh Nhật cướp xe gạo, Bác bảo: “Thôi, cướp xe, không nên…”. Hôm ấy thật tiếc, trời hơi tối, tôi không chụp được Bác. Tôi còn được theo Bác chụp ảnh Người đi thăm Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Nhân dân. Bác đi nhanh lắm, tôi không theo kịp, vì một chân bị bỏng mà! Tôi nhớ nhất cái lần một đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số về Hà Nội chào mừng Bác. Hôm ấy thì có tôi chụp. Bác đến chỗ tôi, nói vui:
- Này, hình như cái vừa chụp bị hỏng rồi!
- Dạ vâng, hình như cái đó hơi rung. Con xin Bác cho chụp lại!
Bác cười: Được!
Trong những năm 20 của thế kỷ này, khi bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Bác cũng từng làm thợ ảnh, cho nên Người rất quan tâm đến chúng tôi. Nhiều khi thấy tôi đến, Bác bảo chú Ninh phải chụp thế này thế kia, không thì hỏng đấy!
Trong các buổi chiêu đãi, có lần Bác đến nói:
- Chú Ninh ăn đi chứ. Cứ chụp mãi! Câu nói ấy thể hiện tình yêu thương, chăm sóc của người cha, làm tôi vô cùng cảm động và nhớ mãi. Một lần khác, bác sĩ riêng của Người mang bánh đến cho tôi giữa bữa tiệc: “Cụ bảo mời ông ăn!”.
Vâng, cả dân tộc ta, trong đó có chúng tôi, sung sướng trở thành những người dân được hưởng Độc lập, Tự do mà Hồ Chủ tịch là người trọn đời phấn đấu để đem lại. Là người nhiếp ảnh, tôi đã sống và ghi lại những hình ảnh của buổi bình minh vẻ vang đó. Tôi cũng từng nghĩ: Những ngày được gần Người - Chủ tịch Hồ Chí Minh - là những ngày có giá trị tỏa sáng đến suốt cuộc đời. Ánh sáng đó rọi từ buổi bình minh của một kỷ nguyên mới.
(Trích từ cuốn sách: Còn mãi những khoảnh khắc, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998).